Chứng nghiến răng khi ngủ 11

20:53

Chứng nghiến răng lúc ngủ không chỉ tác động đến hàm răng của bạn mà còn gây ra tiếng động khiến người nằm cạnh khó chịu. Nó xảy ra lúc những cơ cổ họng thư giãn vào ban đêm và chặn đường hô hấp, làm gián đoạn tương đối thở. Tật nghiến răng được định nghĩa là “hoạt động lặp đi lặp lại của cơ hàm, đặc trưng bởi sự siết chặt hoặc nghiến của răng và/hoặc bởi sự giằng và đẩy của hàm dưới”. Hoạt động này có thể tạo nên âm thanh ken két hoặc không.

Nghiến răng là một hoạt động có khả năng gây quá tải hệ thống nhai. Hiện tại, nguyên nhân chủ yếu gây bệnh vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, bệnh thường đi kèm với tình trạng stress, rối loạn khớp cắn, dị ứng và can hệ tới tư thế ngủ. Không may, hiện tại có rất ít dữ liệu về nguyên do và ảnh hưởng của bệnh. Vì thế, việc đánh giá và điều trị thận trọng là cách tốt nhất để đưa ra những chỉ định đúng. Nghiến răng lúc ngủ: Xuất hiện ở cả người to và trẻ em. Thường là hoạt động nghiến qua lại.

Nghiến răng không thực hiện chức năng của hệ thống nhai và có thể gây chấn thương khớp cắn. Khớp cắn tác động lên chức năng của cơ, qua đấy tác động tới khớp thái dương hàm. Do vậy, bất kỳ sự đổi thay nào trong khớp cắn đều tác động tới cả cơ và khớp. Sai khớp cắn chính là một trong các nguyên nhân phổ thông nhất gây tật nghiến răng. Hậu quả của nó có thể gây ra đau khớp thái dương hàm. Nguyên do nghiến răng khi ngủ chưa thực sự rõ ràng, hãy cùng tìm hiểu một số nguyên nhân gây nghiến răng lúc ngủ.

- Thuốc,chất kích thích

Một số tác dụng phụ của những loại thuốc và thuốc gây nghiện làm tăng nguy cơ nghiến răng như: Thuốc chủ vận và đối kháng dopamine. Thuốc chống trầm cảm ba vòng. Những chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc. Rượu, cocaine,...

- Nghề nghiệp

Một số nghề nghiệp có đòi hỏi đặc biệt có thể gây nên nghiến răng hay cắn chặt răng. Ví dụ: Nghệ sĩ piano cắn chặt răng khi giữ đàn lúc chơi; công nhân khuân vác cắn chặt răng để gồng sức; nghệ sĩ biểu diễn xiếc dùng răng để giữ người trên không trung,...

- Bản năng

Một số nghiên cứu cho rằng những thói quen này thuộc về bản năng, là hoạt động tập tính của loài có vú. Mục đích của nó là để duy trì sự sắc bén của hàm răng.

- Yếu tố tại chỗ

Cản trở cắn khớp có thể là vấn đề gây bệnh. Chúng cản trở đường đi của vận động nhai thông thường. Nguyên do có thể ở một răng hoặc một nhóm răng. Ví dụ: lúc răng khôn hàm trên mất, răng khôn hàm dưới mọc trồi. Khi cắn lại, hàm dưới phải đưa ra trước nhiều hơn để đóng hàm. Điều này làm lệch lạc đi lại hàm thông thường.

- Di truyền

Các người có thành viên trong gia đình đang hoặc từng mắc bệnh nghiến răng khi ngủ có nguy cơ cũng bị bệnh này. Nghiên cứu cho thấy rằng có thể có một chừng độ can hệ tới di truyền trong việc phát triển tật nghiến răng. 21 – 50% Những người bị nghiến răng ban đêm có thành viên trong gia đình từng mắc bệnh trước đây. Điều này cho thấy yếu tố di truyền có can hệ đến bệnh.

- Tâm lý

Stress những nghiên cứu báo cáo cho thấy yếu tố tâm lý có nguy cơ tác động đáng kể tới bệnh, chủ yếu là lối sống căng thẳng. Chứng cớ về vấn đề này đang gia tăng nhưng vẫn chưa có kết luận. Căng thẳng xúc cảm được coi là nhân tố kích hoạt chính. Nghiến răng ban đêm có thể là sự đáp ứng đối với căng thẳng ban ngày đã hoặc đang diễn ra.

Căng thẳng có thể xảy ra ở các người làm việc nhiều, bị áp bức; sinh viên đang trong mùa thi. Căng thẳng đi kèm với lo lắng, sự kìm nén có thể kích hoạt các hoạt động của não bộ. Điều này làm tăng kích thích tâm thần, có thể gây nên đầy đủ những phản ứng của nghiến răng. Nghiến răng thường gặp ở tuổi trẻ và thường biến mất khi lớn hơn, các người mạnh mẽ, dễ khích động có khả năng mắc bệnh cao hơn.

- Một số nguyên nhân khác

Dị ứng: Do nhiễm ký sinh trùng đường ruột, rối loạn tiêu hóa hay dị ứng thức ăn. Đây là những nguyên nhân có thể của nghiến răng trầm trọng ở trẻ em. Tình huống thiếu vitamin, mất cân bằng enzym cũng có tác động tới bệnh. Rối loạn sinh dưỡng, tiết niệu, nội tiết cũng là những nhân tố dễ dàng gây bệnh, phổ biến ở trẻ em hơn người lớn.

Các rối loạn thần kinh trung ương có thể can hệ đến bệnh: Bệnh Down, bệnh Huntington, nhiễm khuẩn màng não, stress sau chấn thương, chứng bại não, động kinh, bệnh Leigh, bệnh Parkinson, hội chứng Rett,...

>>> Tham khảo:

Share this

Tin tức liên quan

Previous
Next Post »